GIỚI THIỆU
Di tích lịch sử Đền Hùng tọa lạc trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì nằm ở độ cao 175m so với mực nước biển, bao quanh là rừng cấm linh thiêng. Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn núi Hùng là rậm rạp xanh tươi với 150 loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn sót lại một số cây đại thụ như chò, thông, lụ,…và một vài giống cây cổ sơ như kim giao, thiên tuế,.. Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô thành phố Việt Trì, cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang xưa. Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này
Đây là nơi thờ cúng các vua Hùng đã có công dựng nước, tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Từ Hà Nội, du khách có thể đến Đền Hùng bằng đường bộ theo quốc lộ 2 hoặc tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai.
Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại
Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt quan trọng này được xây dựng từ thế kỷ 15. Toàn bộ Khu di tích có 4 đền: đền Hạ - đền Trung - đề Thượng - đền Giếng, 1 chùa và lăng vua Hùng hài hoà trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ. Mỗi năm dân chúng đổ về đền Hùng rất đông vào ngày 10/03 âm lịch để tham gia lễ hội đền Hùng nhân ngày giỗ Tổ Hùng Vương.
Đến với đền Hùng, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng một công trình kiến trúc, thiết kế, nghệ thuật điêu khắc từ thời vua Đinh Tiên Hoàng mà còn cảm nhận được vẻ đẹp của công trình hoành tráng ẩn mình dưới những cây cổ thụ to lớn…
❀ KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG CÓ GÌ?
Cổng đền
Cổng đền được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Kiến trúc vòm cuốn cao 8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi hai con Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng), cũng có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.
Đền Hạ
Đền Hạ xây theo kiến trúc kiểu chữ “nhị” gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m. Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc Hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mỹ thuật. Mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Phía sau đền hiện có dấu tích giếng “Mắt Rồng” tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng để sau nở thành 100 người con mà chúng ta vẫn được học khi còn bé.
Gần Đền Hạ có một ngôi chùa tên là Thiên quang thiền tự. Chùa được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, gồm các nhà: tiền đường (5 gian), thiêu hương (2 gian), tam bảo (3 gian) ở phía trước, dãy hành lang, nhà Tổ ở phía sau. Các toà được làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột xây, kèo suốt. Mái chùa được lập ngói mũi, đầu đao cong. Bờ nóc tiền đường đắp lưỡng long chầu nguyệt. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ 4 tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa. Chùa còn có một gác chuông được đoán đúc từ thời Hậu Lê; gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng giường kết hợp với bẩy lẻ.
Đền Trung
Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là tới Ðền Trung ở lưng chừng núi có tên chữ là "Hùng Vương Tổ Miếu". Theo huyền sử đền là nơi Vua Hùng thường cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh dày.
Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian quay về hướng nam, dài 7,2m, rộng 3,7m. Mái hiên cao 1,8m, không có cột kèo, cầu quá giang gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở 3 cửa.
Đền Thượng
Đền Thượng ở trên đỉnh núi Hùng có tên chữ là “Kính thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời) còn có tên là “Cửu trùng tiên điện” (Điện giữa chín tầng mây). Tương truyền rằng thời Hùng Vương, đây là nơi các vua Hùng làm lễ tế Trời đất, thần Núi và thần Lúa; cũng là nơi Thục Phán sau khi lên ngôi dựng cột đá thề sẽ trông nom ngôi đền và giữ gìn cơ nghiệp vua Hùng. Đền Thượng được đặt trên đỉnh núi, nơi ngày xưa theo truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt triệu tổ" (tổ tiên của người Việt phương Nam). Tấm văn bia Hùng Vương từ khảo được tạc bằng đá xanh, gắn trên tường quan cư ở bên trái đền Thượng, vốn đã bị đánh cắp vào khoảng 10 năm sau khi xuất hiện, chỉ còn lại chân bia. Vào năm 2010, bia được khôi phục.
Đền Thượng đến thế kỷ XV được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn trải qua đại trùng tu. Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, kiến trúc đơn giản, kèo cầu, không có chạm trổ, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông trống (cấp I), Đại bái (cấp II), Tiền tế (cấp III) và Hậu cung (cấp IV). Trong Đền Thượng có bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” (Tổ khai sáng nước Việt Nam).
Lăng Hùng Vương
Lăng Hùng Vương (Hùng Vương lăng) tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ sáu. Lăng mộ nằm ở phía đông đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất, niên hiệu Tự Đức năm thứ 27 (1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (năm 1922) trùng tu lại.
Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái đắp ngói ống, cổ diêm, 3 phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá.
Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài 1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m. Mộ có mái mui luyện. Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (Lăng Hùng Vương).
Đền Giếng
Thăm đền Giếng, đầu tiên sẽ gặp cổng đền có kiểu dáng gần giống cổng chính nhưng nhỏ và thấp hơn. Cổng xây theo kiểu kiến trúc 2 tầng 8 mái. Tầng trên giữa cổng có bức đại tự đề: “Trung sơn tiểu thất” (ngôi miếu nhỏ trong núi). Tầng dưới, giữa có một cửa xây kiểu vòm, hai bên có đề câu đối và tượng hai võ sỹ. Mặt sau cổng đắp hổ, mỗi con một bên.
Đền xây theo hướng Đông Nam, kiến trúc kiểu chữ công, gồm nhà tiền bái (3 gian), hậu cung (3 gian), 1 chuôi vồ và 2 nhà oản (4 gian), có phương đình nối tiền bái với hậu cung. Đền được xây dựng lên trên giếng nên hiện nay giếng ở bên trong hậu cung bốn mùa nước trong mát, không bao giờ cạn.
Tương truyền đền Giếng là nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ 18) soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Hai bà có công dạy dân trồng lúa nước và trị thuỷ nên được nhân dân lập đền thờ phụng muôn đời.
Đền Tổ mẫu Âu Cơ
Khánh thành tháng 12/2004 trên núi ốc Sơn (núi Vặn); đền Tổ mẫu Âu Cơ có đặt tượng thờ Mẹ Âu Cơ, hai Lạc hầu, Lạc tướng. Để lên tới đây du khách phải trải qua 553 bậc đá Hải Lựu.
Đền xây theo kiến trúc truyền thống với cột, xà, hoành, dui bằng gỗ lim, mái được lợp bằng ngói mũi hài, tường bằng gạch bát. Đền chính có diện tích 137m2, làm theo kiểu chữ Đinh. Bên cạnh đền chính có nhà Tả vũ, nhà Hữu vũ, nhà Bia, Trụ biểu, Tứ trụ, cổng Tam quan, nhà tiếp khách và hoa viên.
Bảo tàng Hùng Vương
Bảo tàng Hùng Vương được khánh thành đúng ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi (2003) hiện là nơi lưu giữ gần 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 4.000 hiện vật có trong Bảo tàng, 162 bức ảnh, 4 bức tranh gốm, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng, 5 hộp hình, một nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: “Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử”.
Phần trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương tìm được trên đất Phú Thọ và Vĩnh Phúc.
Giới thiệu việc hình thành khu di tích lịch sử Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích của nhân dân cả nước.
Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của người đứng đầu Nhà nước phong kiến trước đây, của Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
Trống đồng tại Đền Hùng
Trống đồng mang tên Trống Hy Cương được tìm thấy ở xã Hy Cương ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh ngày 7 tháng 8 năm 1990 khi một gia đình người dân đào hố tôi vôi. Trống khá nguyên vẹn, có đường kính mặt 93 cm và chiều cao 70 cm, là trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất trong tổng số trống Đông Sơn đã biết ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Trống có hoa văn trang trí phong phú và cách điệu hóa cao độ, trong đó có các loại hoa văn chủ đạo như hình ngôi sao mười hai cánh đường kính đến 20 cm, tám con chim lạc dài 15 cm bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, hình người hóa trang cách điệu chỉ có mắt và lông công, thuyền v.v. Có thể quanh Hy Cương còn nhiều trống đồng chưa được phát hiện ra nhưng với việc phát hiện trống lớn như một bằng chứng khảo cổ tại chân núi Nghĩa Lĩnh, cho thấy vị trí đặc biệt của Hy Cương và đền Hùng trong lịch sử dân tộc (trống lớn thường thuộc sở hữu của một vị tù trưởng hoặc thủ lĩnh rất lớn), là một trong những minh chứng khẳng định tính lịch sử của huyền thoại các vua Hùng. Trống hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Hùng Vương với số đăng ký ĐH 2012 (theo số mới), số cũ là 1549.
CÁC TÍCH VỀ ĐỀN HÙNG
Khu di tích lịch sử đền Hùng được biết đến với đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, đền Giếng...nhưng không nhiều người biết, nơi cội nguồn này còn có nhiều tích cổ gắn với những kiến trúc, dấu ấn đặc biệt khác.
Cột đá thề
Cột đá thề nằm trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, bên phải của điện Kính Thiên, đền Thượng. Theo tích xưa kể lại, cột đá thề là tượng trưng cho lời thề của Thục Phán: "Nguyện có trời cao lồng lộng soi xét chẳng sai, nước Nam trường tồn lưu ở miếu vũ Hùng Vương. Ví bằng vua sau nối nghiệp trái ước nhạt thề thì sẽ bị trăng búa gió rìu vùi dập làm cho cô độc !".
Tương truyền, Hùng Vương thứ 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Tản Viên. Thục Phán là cháu vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng – Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Cảm kích, Thục Phán dựng cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh và phát thệ thề sắt son với cơ nghiệp họ Hùng.
Qua bao thăng trầm của thời gian, những dấu tích cột đá thờ nguyên bản đã thất lạc. Những năm 60 của thế kỷ trước, ngành Văn hóa có ý định dựng lại cột đá thề như một biểu tượng đoàn kết dân tộc và ngưỡng vọng tổ tiên. Đến năm 1968, cột đá thề được tôn tạo lên bệ để người dân thập phương về chiêm bái. Đến năm 2010, Dự án tôn tạo lại Cột đá thề được thực hiện, các chuyên gia đã tìm kiếm được cột đá bằng mã não nguyên khối, có khả năng trường tồn với thời gian, hài hòa với cảnh quan thiên nhiên và kiến trúc đền thờ trên đỉnh Nghĩa Lĩnh để thay thế cột đá thề trước đó. Năm 2011, cả khối đá lẫn bệ đá mã não nguyên khối được đưa lên đền Thượng an toàn, được dựng trên chính tâm của cột cũ. Toàn bộ các hạng mục tháo dỡ cột cũ chuyển lưu trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương.
Bàn đá họp bàn việc nước của Hùng Vương và lạc hầu, lạc tướng
Đền Trung tại Khu di tích lịch sử đền Hùng được coi là nơi vua Hùng và các lạc hầu, lạc tướng họp bàn việc nước. Vậy nên ở giữa khoảng sân đền, có một bộ bàn đá 9 miếng hình tròn, mặt dẹt, xếp tròn thành bộ bàn đá.
Những viên đá xếp tròn không được đẽo gọt, tạo khối mà sần sì, mộc mạc nguyên bản. Qua năm tháng mưa nắng, những hòn đá phủ rêu hiện rõ dấu vết cổ kính của thời gian. Khi tới thăm Khu di tích lịch sử đền Hùng, dừng chân ở đền Trung, du khách thập phương sẽ được các hướng dẫn viên kể về tích cổ gắn với sự hiện diện của bộ bàn đá cổ, nơi họp bàn việc nước của vua Hùng và các lạc hầu, lạc tướng- một minh chứng còn lại của thế hệ anh linh tiên Tổ.
Giếng Rồng
Giếng Rồng hay còn gọi là Giếng cổ nằm ở lối xuống từ đền Thượng xuống đền Giếng. Tương truyền rằng nơi đây là nơi Tổ Mẫu Âu Cơ sau khi sinh bọc trăm trứng nở thành trăm người con đã dùng nước giếng nơi đây tắm cho các con. Giếng cổ có đường kính khá lớn, khoảng hơn 2m, thành giếng được ốp đá, phía bên trên được dựng mái che lợp ngói.
Năm 2002, các nhà khoa học đã tiến hành khai quật tại khu vực Giếng và phát hiện trong lòng giếng nhiều dấu tích văn hóa của các thời kỳ: Trần – Lê – Nguyễn…
Nhiều người thường nhầm lẫn Giếng Rồng với di tích đền Giếng nơi thờ hai vị công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa. Thực tế hai địa điểm này hoàn toàn khác nhau. Từ Giếng Cổ, du khách tiếp tục xuống chân núi mới gặp đền Giếng thờ nhị vị công chúa đã có công dạy và giúp dân trồng lúa, có giếng Ngọc nơi công chúa soi gương, chải tóc.
Đền Hùng không chỉ là một thắng cảnh đẹp còn là một di tích lịch sử - văn hóa đặc biệt quan trọng đối với người Việt Nam. Công trình vẫn không ngừng được đầu tư xây dựng với nhiều hạng mục tương xứng vị thế của một vùng đất Tổ, là điểm hành hương cuốn hút và linh thiêng. Về thăm di tích lịch sử Đền Hùng hàng năm là một truyền thống của những người con đất Việt để thêm hiểu về với cội nguồn dân tộc, để tự hào về dòng giống tiên rồng đang chảy trong huyết mạch của mỗi người Việt Nam.